Chấn Động Lực của Nam Mô A Di Đà Phật

 

Nguyên lý Nam Mô A Di Ðà Phật  là chìa khóa then chốt của Pháp Lý Vô Vi Khoa Học Huyền Bí Phật Pháp. Khi bạn mật niệm và thường niệm Nam Mô A Di Đà Phật (hay Lục Tự Di Đà) thì chấn động lực của âm thinh sáu chữ đó sẽ tác động, khai thông sáu huyệt trên cơ thể của bạn gọi là sáu luân xa. Khi bạn trì niệm Lục Tự Di Đà lâu ngày thì do sự phát triển của sức chấn động đó, nó sẽ tạo ra một luồng thanh điển trên đỉnh đầu của bạn, nó giao cảm với âm ba chấn động của càn khôn vũ trụ. Vì tầm mức quan trọng của nguyên lý Lục Tự Di Đà, Ông Tám đã không quản công khó, đích thân giải nguyên lý của Nam Mô A Di Đà Phật và cách niệm qua một cuốn băng cassette, để giúp cho hành giả mới tu biết cách niệm.

 

Bắt đầu hành giả nên nghe cuốn băng này rồi tập niệm theo. Khi niệm, dùng ý niệm, miệng ngậm, răng kề răng, chót lưỡi chạm vào chân nướu răng cửa hàm trên. Khi đi, đứng, nằm, ngồi, nếu mật niệm đều đặn thì dần dần nước miếng sẽ ngọt. Khi có nước miếng ra, quay mặt sang bên trái nuốt; nước miếng đó là tiên đơn linh dược sẽ trị được nhiều bịnh tật nan y. Trong lúc mật niệm 6 chữ nầy, để việc tập trung được dễ dàng, ý niệm nên theo tiếng niệm trong băng thì từ từ sẽ đạt được kết quả tốt như: giải tỏa được tất cả phiền não, đau khổ, nghiệp chướng. . v.v.

 

Trước hết hành giả mới nên niệm bằng cách để chấn động lực của âm thinh Nam Mô A Di Đà Phật chuyển chạy trên các luân xa tương ứng trên cơ thể của mình, như sau:

 

NAM: Âm hưởng chấn động của âm thanh cuối cùng của chữ NAM sẽ tập trung ngay giữa trung tim chân mày hay Ấn Đường (Hỏa luân xa).

 

MÔ: Âm hưởng chấn động của âm thanh cuối cùng của chữ MÔ tập trung ngay trung tim bộ đầu hay Hà Đào Thành (Khí điển luân xa).

 

A: Âm hưởng chấn động của âm thanh cuối cùng của chữ A tập trung ở giữa hai trái thận đàng sau lưng (Thủy điển luân xa).

 

DI: Âm hưởng chấn động của âm thanh cuối cùng của chữ DI tập trung ở giữa ngực (Trụ hóa luân xa).

 

ĐÀ: Âm hưởng chấn động của âm thanh cuối cùng của chữ ĐÀ làm chấn động khắp cả chân lông và từ đó phát ra ánh sáng và màu sắc. Chữ ĐÀ biểu trưng cho sự phát quang của điển Hồn.

 

PHẬT: Âm hưởng chấn động của âm thanh cuối cùng của chữ PHẬT rơi ngay chỗ cái rún (Hòa cảm luân xa).

 

Ông Tám giải thích như sau:

 

1. "NAM là phương Nam lửa Bính Đinh, chỉ phương Nam mới phát ra hỏa mà thôi. Chúng ta tập trung rồi nó phóng, phát ở đây (trung tim chân mày) thì mở đường ra cái Mô Ni Châu, là Thánh Thai bị giam hãm trong phần hồn. Khi chúng ta giáng sanh xuống thế gian điển hồn đi từ trung tim bộ đầu qua trái thận rồi đưa vô con tim. Cái hồn bị giam hãm trong con tim, nên người đời chỉ ăn thua qua cặp mắt thịt mà thôi. Lo âu cái mặt tiền mà quên phía đàng sau, thành ra càng ngày càng sợ, càng có quyền thế chừng nào càng sợ người ta ám sát và giết mình, vì hiểu một mặt mà không hiểu hai mặt. (Phương pháp công phu, Culver City, tháng 7, 1982.)

 

2. Trong đại vũ trụ, nguồn cội của âm thinh. tiêu biểu cho hướng Bắc và hàm chứa nguồn thanh khí. Nó là một sức mạnh thiêng liêng và cũng là một sức mạnh chi phối sự sống của vạn vật. chỉ rõ vật vô hình trong càn khôn vũ trụ. Trong tiểu vũ trụ của chúng ta thì là biểu trưng cho sự thiền giác được nẩy nở và nó trụở trung tim đỉnh đầu.

 

3. Trong đại vũ trụ, thì nguồn cội âm thinh của chữ A tượng trưng cho phương Bắc và nó hàm chứa một thứ điển lỏng. Đó là sức mạnh của vũ trụ hay còn được coi như là một luồng điển cái. Trong tiểu vũ trụ, âm thanh A thông ứng với thận thủy. Đó là sức sống của con người hay là chất điển lỏng của tinh khí, nó nằm ở Thủy luân xa.

 

4. Trong đại vũ trụ, nguồn cội của âm vận DI biểu trưng cho sự bành trướng của sự hóa vật thể. Nó hàm chứa nguồn điển năng tiềm tàng của vũ trụ. Trong tiểu vũ trụ, âm vận DI tượng trưng cho sự kết tụ và biến thể của ba luồng điển tinh, khí, thần.

 

5. Trong đại vũ trụ, âm ba của ĐÀ tiêu biểu sự phát quang của điển hồn dưới hình thức một đóm ánh sáng màu vàng bao phủ chung quanh bản thể. Sự phát quang này phát xuất từ tám vạn bốn ngàn lỗ chân lông. Sự phát quang này có một năng lực bao trùm cả chung quanh và nó tạo nên một màn phủ huyền bí bảo vệ cho hành giả (người mộ đạo) chống lại mọi tà lực ngoại xâm. Đó cũng là cái biểu tượng lộng lẫy, huy hoàng của Phật gia: một hào quang bao phủ quanh đầu của người mộ đạo.

 

6. Trong đại vũ trụ, nguồn gốc âm vận của chữ PHẬT tiêu biểu cho cái huệ giác của vũ trụ, nó hàm chứa quyền năng giác ngộ của tâm linh. Trong tiểu vũ trụ, thì PHẬT tiêu biểu cho sự trực giác, tiên thiên tri giác, sự hư không. Nó xuất phát ngay ở cái rún. Khi mà tâm linh của hành giả đạt đến chỗ sáng suốt và thanh tịnh thì nó sẽ khơi dậy cái quá khứ của hành giả để giúp cho hành giả tự sửa những lỗi lầm của mình. Nó sẽ gợi cho hành giả nhớ cái hiện thực xa xưa của mình."

 

Bạn phải trì niệm Nam Mô A Di Đà Phật chuyển chạy trên các luân xa tương ứng của mỗi chữ trong sáu tháng đầu hay cho đến khi nào bạn bắt đầu thể nghiệm thấy luồng điển nó rút trên bộ đầu của bạn. Sau đó thì bạn chỉ cần tập trung trên đỉnh đầu trong khi ý niệm Nam Mô A Di Đà Phật.

 

Trì niệm Nam Mô A Di Đà Phật khi đi, đứng, nằm, ngồi, cũng là một cách thiền định thường xuyên vì trí ý của bạn đã tập trung ở một điểm. Nó sẽ giúp mở mang sự sáng suốt của bạn và thanh lọc tư tưởng của bạn.

 

Cụ Đỗ Thuần Hậu nói rằng: "Từ cái ý niệm bạn sẽ đi đến chỗ thường niệm và vô biệt niệm rồi thì bạn sẽ đi đến chỗ hòa cảm với Nam Mô A Di Đà Phật".

 

Ông Tám nói: "Cho nên khi hành niệm chúng ta mới thấy chấn động lực là quan trọng. Chấn động lực đó là lục tâm thông trong bản thể. Sáu cái huyệt đó là những điểm chí tử khi bị đâm vào cái chỗ đó là chết ngay. Mà lục tâm thông rồi thì chúng ta mới hiểu sự chuyển động của càn khôn vũ trụ. Lúc đó chúng ta mới đạt tới sự thanh tịnh, chúng ta mới thấy rằng lời hay ý đẹp của đức Phật đã đạt thành truyền cảm cho chúng ta, mà chúng ta không khai mở lục tâm thông thì làm sao chúng ta thu hút sự truyền cảm đó được." ( Phương Pháp Công Phu, Culver City 1982.)

 

 

Bản gốc: www.vovi.org